Tiểu sử Huyện Sỹ

Huyện Sỹ tên khai sinh là Lê Nhứt Sỹ, sinh ra trong một gia đình theo đạo Công giáo tại khu vực Cầu Kho, Sài Gòn, nhưng quê quán ông ở Tân An, Long An; lấy tên thánhPhilípphê.

Vì gia đình khó khăn nên Lê Nhất Sỹ đi làm nghề lái đò chở lương thực thuê cho dân làng. Về sau, có một linh mục (cố đạo) tên là Moulin biết gia cảnh của Lê Nhất Sỹ nên đã nhận Sỹ làm con đỡ đầu để nuôi cho ăn học. Gia đình Sỹ đồng ý cho theo vị linh mục này để nhập học trường dòng. Lê Nhất Sỹ học hết bậc tiểu học ở Sài Gòn rồi được linh mục Moulin gửi sang học ở trường dòng Penang, Mã Lai - nơi đào tạo những tu sĩ Công giáo cho xứ Đông Dương và các nước vùng Đông Nam Á. Vì thế sau này, ông rất thông thạo tiếng Latinh, tiếng Pháp, tiếng Hoachữ Quốc ngữ (khi ấy còn rất sơ khai). Do trùng tên với một người thầy dạy nên từ đó Lê Nhất Sỹ đổi tên thành Lê Phát Đạt. Sau khi về nước với vốn ngoại ngữ thông thạo, ông được chính quyền Nam Kỳ thuộc Pháp bổ nhiệm làm phiên dịch viên, rồi làm ủy viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (từ năm 1880), phong hàm cấp huyện nên ông bắt đầu được gọi là Huyện Sỹ.

Tương truyền vào thời đó, dân cư bỏ ruộng đất đi tản mác khắp nơi tránh Pháp, chính quyền cho đấu giá rẻ mạt mà cũng không có người mua. Vì làm việc cho chính quyền nên bất đắc dĩ ông phải chạy chọt tiền bạc để mua liều, nào ngờ gặp may, ruộng đất ông mua trúng mùa liên tiếp mấy năm liền, nên ông trở nên giàu có[1]. Tuy nhiên về sau, ông lại dành phần lớn gia sản cho hoạt động phát triển nông nghiệptruyền bá đạo Công giáo, bằng chứng là ông đã bỏ tiền để xây hai ngôi nhà thờ tại Sài Gòn là nhà thờ Chợ Đũi (ngày nay gọi là Nhà thờ Huyện Sỹ) và Nhà thờ Chí Hòa.

Vợ ông là bà Huỳnh Thị Tài, các con gồm có: Lê Thị Bính (mẹ của Nam Phương hoàng hậu), Lê Phát An, Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân… đều kế nghiệp trở thành những đại điền chủ, có rất nhiều đất đai ở Tân An, Đức Hòa, Đức HuệĐồng Tháp Mười

Ông huyện Sỹ qua đời năm 1900, khi đó nhà thờ Chợ Đũi vẫn chưa xây dựng xong. Còn vợ ông qua đời năm 1920. Sau đó, người ta đưa phần mộ hai ông bà an táng ở gian chái sau cung thánh của nhà thờ Chợ Đũi.

Trước đây có một con đường ở phường 7, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh mang tên Lê Phát Đạt, gần nhà thờ Chí Hòa. Khoảng năm 2000, con đường này đổi tên thành đường Đặng Lộ. Sau đó, nhiều ý kiến phản đối nên chính quyền chia lại đường Đặng Lộ thành 2 cách nhau tại ngã tư đường Nghĩa Hòa (thường gọi là ngã tư Quốc tế) 1 bên là Đặng Lộ từ Chử Đồng Tử đến Nghĩa Phát, từ Nghĩa Phát đến Dân Trí là Lê Phát Đạt.[2]